Giá lúa gạo hôm nay 19/6 tại các địa phương

giá lúa gạo hôm nay 19/6

Giá lúa gạo hôm nay 19/6 

Giá lúa gạo hôm nay 19/6 của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long

Giá lúa gạo hôm nay 19/6 ở Đồng bằng sông Cửu Long ở các địa phương không ổn định, có sự tăng giảm trái chiều. Thị trường lúa Hè Thu không có sự biến chuyển.

Giá lúa gạo hôm nay 19/6 ở tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long không ổn định có sự điều chỉnh giữa các khu vực. Trong đó, giá lúa gạo duy trì ổn định ở kho An Giang. Cụ thể là giá lúa OM 5451 có giá dao động trong khoảng 6.300 – 6.500vnđ/kg; lúa OM18 có mức giá là 6.800 đồng/kg; lúa Nàng Hoa 9 được thương lái thu mua với mức gía từ 6.600 – 6.800vnđ/kg; lúa IR 50404 có mức giá trong khoảng 6.200 – 6.400vnđ/kg; lúa Nàng Nhen loại khô có giá là 13.000 đồng/kg; lúa Nhật đang neo với giá trong khoảng 7.800 – 8.000 vnđ/kg; lúa Đài Thơm 8 từ 6.800 – 7.000 vnđ/kg. Nếp AG loại tươi với giá là 6.200 đồng/kg. 

Các mặt hàng khác như: nếp Long An loại khô dao động với mức giá 7.900 – 8.100 đồng/kg; nếp AG loại khô có giá trong khoảng 7.200 – 7.600 vnđ/kg.

Tương tự tại khu vực Cần Thơ giá lúa lại tiếp tục duy trì ổn định ở một số giống như: Jasmine là 7.600 vnđ/kg; IR 50404 là 6.800 đồng/kg; IR 50404 là 6.800 vnđ/kg.​​ Trong khi tại khu vực Tiền Giang lúa có sự điều chỉnh tăng về giá theo một số chủng loại lúa. Cụ thể giống lúa IR 50404 tại Tiền Giang tăng 200 đồng/kg – lên mức 6.800 vnđ/kg. Ngược lại, giống lúa Jasmine lại giảm còn 7.000 đồng/kg; riền lúa OC10 vẫn duy trì với mức giá 6.800 đồng/kg.

Tại khu vực Hậu Giang thì giá lúa lại có sự điều chỉnh giảm. Trong đó lúa RVT có giá 8.500 vnđ/kg – giảm 100 đồng/kg; lúa IR 50404 giảm 100 đồng kg còn 7.400 đồng/kg nhưng giống OM lại ổn định với mức giá 7.800 vnđ/kg.

Các mặt hàng gạo khác như gạo thành phẩm, gạo nguyên liệu điều chỉnh tăng giá. Trong đó, gạo nguyên liệu dao động quanh mức giá 9.800 – 9.850vnđ/kg – tăng 100 -120 vnđ/kg; gạo thành phẩm tăng 100 đồng – với mức giá là 11.100 – 11.200 vnđ/kg. Về các mặt hàng phụ phẩm cũng có sự điều chỉnh tăng giá lên mức 9.500 – 9.600 – tăng 100 đồng/kg; Cám khô lại được duy trì ổn định với giá là 7.500 – 7.700 đồng/kg.

giá lúa gạo hôm nay 19/6

Giá gạo hôm nay 19/6 tại khu vực chợ Lẻ.

Giá gạo duy trì ổn định tại các khu vực chợ Lẻ cụ thể : gạo Sóc thường 15.000 đồng/kg; gạo thơm Jasmine dao động với mức giá 15.000 – 16.000 đồng/kg; Nàng Hoa 18.500 đồng/kg; gạo thường còn 11.500 – 12.500 đồng/kg; Sóc Thái 18.000 đồng/kg; Nếp ruột 16.000 – 18.000 đồng/kg; Gạo thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg; Gạo Nhật 22.000 đồng/kg; Gạo trắng thông dụng (gạo tẻ) 14.500 đồng/kg;  Cám 7.600 – 8.000 đồng/kg; Gạo thơm Thái hạt dài duy trì 18.000 – 19.000 đồng/kg và Hương Lài 19.000 đồng/kg.

Chủng loại lúa/gạoGiá thành
Lúa Đài Thơm 86.800 – 7.000
lúa OM 186.800
lúa IR 504046.200 – 6.400
lúa OM 54516.300 – 6.500
lúa Nàng Hoa 96.600 – 6.800
lúa Nhật7.800 – 8.000
lúa nếp khô Long An7.900 – 8.100
lúa Nàng Nhen (khô)13.000 
lúa nếp khô An Giang7.200 – 7.600
lúa nếp Long An7.900 – 8.100
gạo thơm Jasmine15.000 – 16.000
gạo thành phẩm 11.000 – 11.200
gạo Sóc Thường15.000
lúa nếp ruột16.000 – 18.000
gạo nguyên liệu9.800 – 9.850
gạo Nàng Nhen22.000
gạo Thơm Đài Loan20.000 
gạo Hương Lài19.000
gạo thơm Thái hạt dài18.000 – 19.000
gạo Nàng Hoa18.500
cám7.600 – 8.000

Thông tin từ các thuơng lái hiện nay các bến vắng gạo và nguồn gạo nguyên liệu tiếp tục về ít, thị trường lúa hè thu không có nhiều sự biến chuyển. 

Giá gạo hôm nay 19/6 trên các thị trường xuất khẩu

Giá gạo trên thị trường xuất khẩu được duy trì ổn định cụ thể là gạo Jasmine 578 USD/tấn; giá gạo 25/100 tấm ở mức 478 USD/tấn và 5/100 tấm của nước ta đang được chào bán ở mức 498 USD trên một tấn.

Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cung cấp số liệu cho thấy, vụ Hè Thu năm 2023: các khu vực vùng Đồng bằng sông Cửu Long, xuống giống được 1,320 triệu ha/1,5 triệu ha đạt gần 88% diện tích kế hoạch, đã thu hoạch đạt khoảng 152 ngàn ha, với năng suất 66,19 tạ/ha.

Giá lúa gạo hôm nay 19/6 ở các tỉnh, thành phố Đồng bằng sông Cửu Long có sự tăng giảm không ổn định, giá gạo trên thị trường xuất khẩu thì ngược lại được duy trì với mức khá ổn định.